Thụ tinh nhân tạo ra đời khi nào? Cha đẻ của kỹ thuật IUI
Thụ tinh nhân tạo là một trong những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được áp dụng phổ biến, mang lại tỷ lệ thành công cao, giúp nhiều cặp vợ chồng muộn con hiện thực hóa giấc mơ làm cha mẹ. Vậy thụ tinh nhân tạo ra đời khi nào? Lịch sử hình thành của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản này ra sao? Theo dõi nội dung bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về vấn đề này.
1. Chuyên gia giải đáp: Thụ tinh nhân tạo ra đời khi nào?
Thụ tinh nhân tạo tên tiếng anh là intrauterine insemination (IUI) hay còn gọi là bơm tinh trùng vào buồng tử cung, đây là một trong những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đơn giản và ra đời sớm nhất. Với kỹ thuật này, tinh trùng của nam giới sẽ được bơm trực tiếp vào buồng tử cung của người phụ nữ bằng dụng cụ chuyên dụng ở gần thời điểm trứng rụng để tăng khả năng thụ thai. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản này hiệu quả với hầu hết các trường hợp bị vô sinh hiếm muộn, nhất là những trường hợp nam giới bị tinh trùng yếu ít, nữ giới bị lạc nội mạc tử cung… hoặc vô sinh không rõ nguyên nhân.
Từ những năm 1940 – 1950, kỹ thuật bảo quản lạnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình bảo quản tinh trùng phục vụ cho các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, trong đó có bơm tinh trùng vào buồng tử cung.
Thụ tinh nhân tạo là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có lịch sử lâu đời, đầu tiên là ở động vật, sau đó là ở người. Việc áp dụng phương pháp này ở động vật đã có từ thế kỷ XIV khi người Ả Rập đã sử dụng để lại tạo ngựa giống. Cuối năm 1784, Lazzaro Spallanzani được biết đến là người đầu tiên sử dụng kỹ thuật phối giống chó vào cuối năm 1784. Còn tại London năm 1793, John Hunter là người đầu tiên đưa ra báo cáo về trường hợp người mang thai thành công bằng phương pháp bơm IUI. Mặc dù Hunter đã nhận được những phản hồi tích cực về vấn đề này, tuy nhiên có nhiều khả năng đã có những nỗ lực thành công trước đó.
Để thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản này Hunter bắt đầu bằng cách thu thập tinh dịch từ một người chồng mắc bệnh hypospadias , không có khả năng xuất tinh. Theo đó, ông rạch một đường vào tinh hoàn của người đàn ông để lấy tinh dịch. Sau đó, ông tiến hành thụ tinh với người vợ bằng cách đặt tinh dịch của người chồng vào cổ tử cung của cô ấy bằng một dụng cụ chuyên dụng, kết quả là thụ thai thành công.
Vào năm 1866, James Marion Sims sau đó đã thử nghiệm phương pháp thụ tinh nhân tạo IUI ở Hoa Kỳ với sáu phụ nữ nhưng tỷ lệ thành công thấp, lý do là bởi ông không hiểu đầy đủ về chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ và ông đã nhầm kinh nguyệt với thời kỳ rụng trứng.
Đối với phương pháp bơm IUI, bác sĩ thu thập tinh dịch từ bạn tình hoặc người hiến tặng thông qua thủ dâm hoặc sử dụng bao cao su thu thập. Tinh dịch sau đó được đặt thủ công vào ống cổ tử cung của người phụ nữ trong thời kỳ rụng trứng . Nếu nam giới gặp khó khăn khi xuất tinh, các bác sĩ có thể phẫu thuật lấy tinh trùng ra khỏi tinh hoàn.
IUI là một lựa chọn tốt để điều trị vô sinh nam khi nguyên nhân là do oligozoospermia (quá ít tinh trùng ) hoặc nếu một phần tinh trùng bất thường. Đối với oligozoospermia, trước khi bơm vào buồng tử cung tinh trùng được cô đặc trước bằng cách loại bỏ một số huyết tương tinh dịch, là phần lỏng của tinh dịch . Đối với những người đàn ông có tinh trùng di động thấp hoặc một số có hình dạng bất thường, bác sĩ có thể chỉ định điều trị bằng thuốc để hỗ trợ khả năng di chuyển hoặc chọn ra những tinh trùng khỏe mạnh để thụ tinh.
Nếu vấn đề vô sinh của nam giới không thể được giải quyết, thì có thể sử dụng tinh trùng từ người hiến tặng thường là từ ngân hàng tinh trùng – Đây cũng là một lựa chọn phổ biến cho những phụ nữ độc thân mong muốn có con. Việc hiến tặng tinh trùng tại các ngân hàng tinh trùng được kiểm tra nghiêm ngặt về khả năng sống của tinh trùng, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và rối loạn di truyền. Nếu chất lượng tinh trùng không đảm bảo thì sẽ từ chối nhận từ những người hiến tặng.
Bác sĩ thu thập tinh trùng từ nam giới hoặc rã đông tinh trùng được bảo quản ngay trước thời kỳ rụng trứng của người phụ nữ . Thời điểm rụng trứng có thể được xác định thông qua xét nghiệm máu để phát hiện sự gia tăng của hormone luteinizing trong máu. Nếu cần thiết, tinh dịch được xử lý bằng thuốc để tăng khả năng vận động hoặc nồng độ tinh trùng. Sau đó, tinh dịch được đưa vào cổ tử cung bằng một dụng cụ chuyên dụng, vị trí tùy thuộc vào việc người phụ nữ đó có gặp vấn đề về cổ tử cung mà có thể gây ra hiện tượng đào thải tinh trùng hay không.
Gần đây, phương pháp thụ tinh nhân tạo IUI được áp dụng phổ biến, điều này đã mang đến cơ hội mang thai thành công rất lớn cho các gia đình hiếm muộn. Phương pháp này được đánh giá là một lựa chọn khả thi và chi phí thấp hơn cho nhiều phụ nữ đang muốn mang thai.
Tại Việt Nam, lần đầu tiên kỹ thuật thụ tinh nhân tạo được biết đến là bào năm 1957 tại Học viện Nông Lâm. Khi mới xuất hiện, phương pháp này được thử nghiệm trong lĩnh vực chăn nuôi. Sau khi có những ghi nhận tích cực thì được áp dụng để thực nghiệm cho con người. Và cho đến nay phương pháp này được đánh giá là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mang lại hiệu quả cao, phù hợp với hầu hết các trường hợp bị vô sinh hiếm muộn.
Với những chia sẻ trên đây chắc hẳn các bạn đã tìm được lời giải đáp cho thắc mắc thụ tinh nhân tạo ra đời khi nào. IUI là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện được các chuyên gia đánh giá cao, vậy nên các gia đình hiếm muộn có thể hoàn toàn yên tâm áp dụng phương pháp này để rút ngắn hành trình tìm con của mình.